Đạo Mẫu (2)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 5322 | Cật nhập lần cuối: 2/3/2016 8:53:28 AM | RSS

(tiếp theo)


TỨ VỊ THÁNH BÀ hay TỨ VỊ CHẦU BÀ


Đạo Mẫu (2)Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà được coi như là hóa thân, phục vụ trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là vị Chầu Bà đại diện cho Tứ Phủ, nhưng số lượng các vị Thánh Mẫu có thể tăng lên tới 12 (3x4), tuy nhiên trong số đó, các Chầu Bà từ Đệ Nhất tới Chầu Lục cùng Chầu Bé thường giáng đồng, được mọi người biết rõ thần tích, có nơi thờ phụng riêng, còn các vị khác thì ít giáng đồng và không mấy người biết tới.


Chầu Đệ Nhất là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu, cai quản vùng núi non, sơn cước. Khi giáng Bà mặc sắc phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho Nhạc phủ.


Thuộc Nhạc phủ với Chầu Đệ Nhị còn có Chầu Lục và Chầu Bé. Chầu Lục gốc người Nùng ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chầu Bé được thờ thành đền riêng ở Bắc Lệ (Lạng sơn). Còn Chầu Mười gốc người Thổ, tương truyền đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng, trấn ải vùng Đông Bắc nước ta.


Đền thờ chính của Chầu Mười tại Đồng Mỏ (Lạng Sơn), nhưng đền thờ vọng Bà thì có ở khắp nơi, từ Đồng Đăng, Kỳ Cùng, Thăng Long, Núi Ngự, Sài Gòn, Vũng Tàu... tới vùng thượng như Đà Lạt, Buôn Mê Thuộc, Plâycu ...


Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm sai Tứ Phủ. Tuy đứng đầu Đại phủ, cũng có khi Bà hóa thân dưới dạng Chầu Thoải phủ, mặc màu trắng, múa mái chèo; khi lại hóa thành Thánh Mẫu Thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt (Chầu Đệ Tứ khâm Sai Thượng Thiên).


Chầu Đệ Ngũ ít khi giáng đồng, trần gian ít ngươi biết tới. Tương truyền Bà là công chúa đời nhà Lý, đi tu ở miền thượng, đền thờ Bà ở Suối Lân, Lạng Sơn. Ngoài ra người ta còn biết tới các vị Chầu khác, như Chầu Thất - Tiên La thờ ở Hưng Hà, Thái Bình, Chầu Bát Nàn ở Đồng Mỏ, Chầu Cửu ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa (Cửu Thiên Huyền Nữ)...


Nói chung các vị Thánh hàng Chầu phần lớn có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ, đối lập với các Quan thuộc dòng Long Vương Thuỷ phủ. Khi giáng đồng, các Chầu đều ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường, nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi.


Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi tên theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười, có hẳn một bản văn chầu 10 Ông Hoàng. Tương truyền, cũng như các Quan, các Ông  Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình, tuy nhiên, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ông  Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng (có công dẹp giặc, những người khai sáng, mở mang cho đất nước. (5)


Trong số mười Ông Hoàng thì thường có sáu Ông giáng đồng, trong đó có ba Ông giáng rất thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bẩy, và Ông Hoàng Mười. Khi giáng đồng, các Ông Hoàng có phong cách gần giống các Quan Lớn, tuy nhiên có phần hào hoa phong nhã, vui tươi và quan hệ với người trần vui vẻ hơn so với các Quan.


Hàng Cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cô có thể hóa thân vào các vai trò khác nhau của Tứ Phủ. Có hẳn một bài văn chầu kể về 12 cô. Cô Đệ Nhất là thị nữ của Mẫu Thượng Thiên, ăn mặc rất đẹp, Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, giáng đồng với hai bông hoa cài trên mái tóc. Cô Bơ (Ba) thuộc Thuỷ phủ rất nổi tiếng, giáng đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống, nhưng cũng có thể gieo bệnh nếu kẻ nào dám làm trái những sở thích của Cô. Cô thứ tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ, cô thứ năm thuộc Chầu Đệ Ngũ, nhưng cũng có khi hóa thân với vai trò thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn hay Thượng Thiên, cô thường xuất hiện trong các bữa tiệc,Cô thứ sáu thuộc phủ Thượng Ngàn, ăn mặc quần áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng, lưng dắt con dao nhỏ, cô hay đi hái cây thuốc chữa bệnh cứu người. Cô thứ Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, khi giáng đồng Cô nói tiếng Mán, tiếng Mường, múa với bó hương cháy rừng rực trên tay, thêu hoa trên tấm vải. Người ta gắn cho cô trông coi Đền Sòng Sơn, một nơi rất linh thiêng . Cô Bé (Cô thứ mười hai) còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ, Cô Bé Thượng Ngàn, có đền thờ riêng ở Bắc Lệ.


Các Cô được gọi tên theo thứ tự như vậy, nhưng tuỳ theo địa phương, các Cô còn được gọi với các tên gắn với từng vùng, như Cô Bé Bắc Lệ, Cô Cam Đường, Cô Chín Giếng, Cô Đồng Mỏ ...


Các Cậu Quận là những người chết trẻ, từ l -9 tuổi, hiển linh  thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì lần  lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé. Đó là những giá đồng với tính cách phóng túng, tinh nghịch , quần áo kỳ cục, lời nói  ngọng ngịu của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi.


Trong điện thần của đạo Mẫu còn có sự hiện diện của Hổ (Ngũ  Hổ) và Rắn (Ông Lốt). Nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía dưới điện thờ Công Đồng, có hình tượng đôi Bạch xà nằm vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản rừng núi, còn Rắn thần là ở nơi sông nước. Trong hầu đồng, tuy không thường xuyên, nhưng cũng có trường hợp các vị Quan Ngũ Hổ hay Ông Lốt (rắn) giáng đồng.


Ngũ Hổ cai quản bốn phương và trung tâm, là con vật quyền  uy, là thần chiến trận, cứu giúp các chiến tướng trong trận mạc. Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà thần, chuyên hãm hại người sống cũng như người đã chết, là vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Trong số các ông đồng và bà đồng, một số ít người có căn Quan Lớn Hổ, khi hầu đồng họ thường được các vị thần Hổ giáng. Mọi người có thể cầu xin vị thần Hổ này giúp trừ tà gây dịch bệnh, phòng ngừa trộm cắp ... Khi hầu đồng thần Ngũ Hổ, các ông đồng, bà đồng thường làm các động tác như phun lửa, nhai bó hương cháy, làm các động tác Hổ ngồi, Hổ vồ mồi ...


Đạo Mẫu (2)Trong đạo Mẫu Tứ Phủ, đây đó người ta còn nhắc tới Phủ Trần Triều, một phủ thuần tuý mang tính chất Nhân Thần. Bởi thế cần xem xét Đức Thánh Trần cùng với các thuộc hạ của Ông trong hệ thống điện thần Tứ Phủ cũng như trong thực hành tín ngưỡng.


Về phương diện điện thần, Đức Thánh Trần được coi là một vị Thánh Tứ Phủ. Trong khá nhiều đền, điện của đạo này đều có ban thờ riêng Ông cùng với các thuộc hạ. Tuy nhiên về hàng bậc cũng như phủ của Ông trong Tứ Phủ lại không dễ xác định. Ông là một nam thần. Ông thường được quy về dòng Long Vương, Bát Hải Đại Vương, thậm chí còn được đặt riêng ra thành một phủ Nhân thần, phủ Trần Triều. Về hàng bậc, có lúc Ông được đổng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ, ngày giỗ và lễ hội kèm theo của Ông cũng đồng nhất với   ngày giỗ Cha ''tháng Tám giỗ Cha'' cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ Ông ở Kiếp Bạc, có ngọn núi xèo rộng ra ôm lấy thung lũng trước mặt ngôi đền là núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên Ông được coi như là Ngọc Hoàng, một loại Vua Cha cao hơn, bên trên cả Thánh Mẫu. Tuy nhiên, không giống như Vua Cha Ngọc Hoàng hay Vua Cha Bát Hải, các vị chỉ ngự trên điện thần chứ không giáng đồng, các Thánh hàng Mẫu cũng chỉ giáng chứ không nhập đồng (hầu tráng mạn), còn Đức Thánh Trần và một số thuộc hạ của Ông thì lại giáng đồng chuyên để trừ tà, cứu chữa con bệnh, tạo nên hẳn một dòng Thanh đồng phân khác với hình thức hầu đồng của dòng đồng cốt thờ Mẫu. Trong thứ tự giáng đồng của những người có căn Trần Triều thì thường là sau khi Mẫu giáng, và trước các vị Thánh hàng Quan. Đấy là chưa kể hình thức lên đồng để trừ tà thường diễn ra trong dịp lễ tiết của Đức Thánh Trần ở những nơi thờ tự chính của Ông.


Một vấn đề đặt ra là trong môi trường và điều kiện nào một quý tộc và danh tướng như Trần Quốc Tuấn đã từng lập nên những danh tích của triều đại nhà Trần sau đó lại trở thành Ông Thánh của Đạo giáo, với quyền pháp của một đạo sĩ và thày phù thủy chuyên trừ đuổi ma tà chữa bệnh cho phụ nữ và cũng dần hội nhập vào dòng tôn thờ Thánh Mẫu Tứ Phủ. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Quốc Vượng, thời nhà Trần, bên cạnh đạo Phật, Đạo giáo khá thịnh hành, nhiều người thuộc giới quý tộc, hoàng thân cũng là những đạo sĩ, tín đồ đạo giáo, trong đó có Trần Hưng Đạo. Từ sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, được phong vương, Ông quay trở về sống ở Kiếp Bạc, vui thú với cảnh sắc thiên thiên, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Huyền thoại về việc Ông dùng ma thuật để trừ tà Phạm Nhan chỉ là sự lịch sử hóa, huyền thoại hóa một thực tế Ông là một thầy thuốc có tài chữa bệnh hậu sản, bệnh của phụ nữ. Với lại, trong dân gian, việc chữa bệnh bằng thuốc luôn đi liền với các hành động có tính ma thuật. Bởi vậy, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, danh tiếng và uy tín của Ông đã được huyền thoại hóa, khoác ra ngoài cái vỏ tín ngưỡng và lưu truyền mãi về sau, cho tận tới ngày nay.


Còn việc Ông trở thành một vị Thánh trong điện thần Tứ Phủ, thậm chí còn đồng nhất Ông với Vua Cha kề cận với Vua Cha trong đối sánh với Thánh Mẫu, thì cũng không có gì khó hiểu. Với tư cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn liền với miền sông nước vùng hạ lưu, lại lập những chiến công thuỷ chiến vang dội, Ông đễ được dân gian khoác thêm chiếc áo thần linh, quy về dòng thuỷ thần Long Vương, được thờ phụng cùng với Bát Hải đại vương, vị thần chuyên coi vùng sông nước và biển cả.


Cũng cần phải phân biệt giữa thờ phụng Đức Thánh Trần với tư cách là một anh hùng dân tộc, một đạo sĩ của dòng Đạo giáo với một Đức Thánh Trần được coi như một Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ. Trong nhiều điện, đền thờ Mẫu Tứ Phủ có ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng ngược lại, trong các đền thờ chính của ông ở Kiếp Bạc, Bảo Lộc, Cổ Trạch ... thì hầu như không có Mẫu và điện thần thờ Mẫu. Như vậy rõ ràng việc tôn thờ Đức Thánh Trần với những đặc tính tiềm tàng, của nó như đã trình bày trên, một phần đã được thu hút và hội nhập vào tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, nhất là ở những giai đoạn muộn của nó. Điều đó cũng góp phần giải thích vì sao sự hội nhập này không diễn ra đều khắp mọi nơi. Chỉ xin đơn cử ở Phủ Giầy, nơi trung tâm của đạo Mẫu, thì trong điện thần phối tự, vai trò của Đức Thánh Trần và kể cả Vua Cha Bát Hải đại vương đều khá mờ nhạt. Trong khi đó thì Lý Bôn với vai trò là Vua Cha, vị thuỷ thần, thì có tới hai đền, một ở Tiên Hương, một ở Vân Cát, đều gọi là Đền Vua nằm kề sát phủ trong quần thể các đền của Phủ Giầy. Tháng 8 hàng năm là kỳ giỗ kỵ ở Đền Vua, giống như vua Cha ở Đền Đồng Bằng (Thái Bình) và Kiếp Bạc (Hải Dương), nơi thờ Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần.


Cùng với Đức Thánh Trần, con trai, hai vương cô và các vị tướng của Ông cũng có thể giáng đồng, tuy những trường hợp như vậy rất hãn hữu. Con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng thờ ở đền Cửa Ông (Quảng Ninh), tướng Phạm Ngũ Lão thờ ở đền Phù Ủng (Bắc Ninh), đặc biệt là người con gái là Vương Cô Đệ Nhất và Vương Cô Đệ Nhị được nhập vào hàng Cô của đạo Tứ Phủ, luôn luôn hầu cận hai bên Thánh Cha.


(còn tiếp)

GS-TS Ngô Đức Thịnh 

Trung tâm Nghiên cứu & Bảo tồn Văn hóa Tín ngưỡng Việt Nam

Nguồn: daomauvietnam.com

 

_____________________

Chú thích:

5. Xem Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin. H., 1996., Sđd, tr. 35


* Bài liên quan:

Đạo Mẫu (1)