Tông thư Salvifici Doloris (6) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4458 | Cật nhập lần cuối: 3/7/2016 10:59:23 AM | RSS

(tiếp theo)

V. Tham dự vào các đau khổ của Đức Kitô

19. Các câu tiếp theo trong bài ca về Người Tôi tớ đau khổ sẽ giúp chúng ta tiếp tục suy tư theo chiều hướng câu hỏi và lời đáp trên:

“Nhưng khi đã hiến thân làm lễ vật đền tội, Người sẽ có kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ Người, chương trình của Chúa sẽ được thành tựu.
Qua cơn thống khổ, Người sẽ được giác ngộ và thỏa mãn.
Vì đã biết mùi đau khổ,
Người Công chính, Tôi trung của Ta,
Sẽ làm cho muôn người lên công chính, và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
Vì thế,
Ta sẽ ban muôn dân cho Người làm gia sản,
Và chiến lợi phẩm của Người,
Sẽ là ứng triệu sinh linh,
Bởi vì Người đã hiến thân chịu chết,
Đã bị liệt vào hàng phạm nhân,
Nhưng thật ra Người đã mang lấy tội muôn dân,
Và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”

(Is 53,10-12)

Có thể nói, với cuộc khổ nạn của Đức Kitô, mọi đau khổ của con người đã đi vào một tình trạng mới. Tình trạng này dường như ông Gióp đã linh cảm: “Tôi biết, vâng, tôi biết Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống…” (G 19, 25). Và có lẽ ông đã hướng chính đau khổ của bản thân ông đến tình trạng mới này, vì nếu không có ơn cứu độ, thì ông không thể nào hiểu được ý nghĩa sung mãn của đau khổ. Nơi Thập Giá Đức Kitô, không những ơn cứu độ được thực hiện bằng đau khổ, mà hơn nữa, chính sự đau khổ của con người cũng đã được cứu chuộc. Đức Kitô, Đấng chẳng hề phạm tội, đã gánh lấy toàn bộ sự dữ do tội. Kinh nghiệm về sự dữ đó đã xác định mức độ vô song của sự đau khổ nơi Đức Kitô, và nỗi đau khổ đó đã trở thành giá cứu độ. Đó là điều mà bài ca về Người Tôi tớ đau khổ trong Isiaa đã nói tới. Về sau, các chứng nhân Giao Ước mới, giao ước ký kết trong máu Đức Kitô, cũng lặp lại điều đó.

Tông thư Salvifici Doloris (6) - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo

Trong thư thứ nhất, Thánh Phêrô diễn tả như sau:

“Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được giải thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại, nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Đức Kitô” (1P 1,18-19)

Trong thư Galat, Thánh Phaolô cũng viết:

“Để cứu chúng ta thoát khỏi thế gian xấu xa hiện tại, Đức Giêsu Kitô đã tự hiến vì tội lỗi chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa, là Cha chúng ta” (Gal 1,4)

Trong thư 1 Côrintô, Người viết:

“Vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em, vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6, 20)

Với những lời lẽ như thế hay những kiểu nói tương tự, các chứng nhân Tân Ước đã diễn tả sự cao cả của công trình cứu độ được thực hiện nhờ đau khổ của Đức Kitô, Đấng Cứu Thế đã chịu đau khổ thay cho con người và vì con người. Mọi người cách này hay cách khác đều tham dự vào công trình cứu độ. Mỗi người cũng được mời gọi tham dự vào sự đau khổ, nhờ đó công cuộc cứu độ được hoàn tất. Họ được mời gọi tham dự vào sự đau khổ mà nhờ đó mọi khổ đau của con người cũng được cứu chuộc. Khi thực hiện ơn cứu độ bằng đau khổ, Đức Kitô đồng thời cũng nâng cao đau khổ của con người đến nỗi thông ban cho nó một giá trị cứu độ. Như vậy, qua đau khổ của mình, mọi người đều có thể tham dự vào đau khổ cứu độ của Đức Kitô.

Nhiều đoạn văn Tân Ước đã diễn tả tư tưởng đó. Thánh Phaolô viết trong thư 2 Côrintô:

“Chúng tôi bị dồn ép tứ bề, nhưng không hề bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang trong thân mình cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi… Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Đức Giêsu trỗi dậy, cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy cùng với Đức Giêsu” (2Cr 4,8-11.14).

Thánh Phaolô nói tới những đau khổ khác nhau, và nhất là những đau khổ mà các Kitô hữu đầu tiên phải chịu “vì Đức Giêsu”. Qua những đau khổ đó, độc giả Côrintô có thể tham dự vào công cuộc cứu độ được thể hiện nhờ đau khổ và sự chết của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, sức thuyết phục của Thập Giá và của sự chết còn được bổ túc nhờ sự Phục Sinh. Con người tìm thấy trong sự Phục Sinh một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, giúp mở ra được một lối đi xuyên qua bóng tối dày đặc của những sỉ nhục, nghi ngờ, thất vọng và bách hại. Do đó Thánh Phaolô cũng viết:

“Vì chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi đau khổ của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi”

(2Cr 1, 5)

Trong thư 2 Thêxalônica, Người khích lệ:

“Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô” (2Tx 3, 5)

Trong thư Rôma, Người viết:

“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, nên tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người” (Rm 12, 1)

Qua kiểu nói trên, ta thấy chính việc tham dự vào đau khổ của Đức Kitô mang hai chiều kích: nếu con người được tham dự vào các đau khổ của Đức Kitô, đó là vì Người đã mở rộng đau khổ của Người cho nhân loại, vì chính Người, trong đau khổ cứu độ, đã tham dự cách nào đó vào tất cả các thống khổ của loài người. Khi nhận ra sự đau khổ cứu độ của Đức Kitô nhờ niềm tin, con người đồng thời cũng khám phá ra trong đó các đau khổ của bản thân mình, và cũng nhờ niềm tin, con người nhận ra rằng đau khổ của mình mang một nội dung và một ý nghĩa mới.

Khám phá đó đã gợi hứng cho Thánh Phaolô viết lên những lời lẽ quyết liệt trong thư Galat:

“Tôi chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Đức Kitô. Thế nên tôi có sống thì không còn phải là tôi sống, nhưng là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp con người của tôi trong niềm tin vào Con Thiên Chúa là Đấng đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,19-20)

Đức tin đã giúp tác giả nhận ra rằng chính tình yêu đã dẫn đưa Đức Kitô đến với thập giá. Và nếu như Đức Kitô đã yêu thương đến nỗi chịu đau khổ và chịu chết, thì cũng chính với sự đau khổ và cái chết đó, Người đang sống nơi những kẻ Người thương yêu, nơi con người, nơi Phaolô. Và đang khi sống nơi con người Phaolô - theo mức độ ý thức điều đó nhờ đức tin mà đáp lại tình yêu của Người - thì Đức Kitô cũng kết hiệp một cách đặc biệt với con người, với Phaolô, nhờ thập giá. Sự kết hiệp đó đã thôi thúc Thánh Phaolô viết trong thư Galat những lời không kém quyết liệt như sau:

“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoại trừ thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ thập giá đó, thế gian đã chết đối với tôi, và tôi cũng đã chết đối với thế gian” (Gl 6, 14)

21. Thập giá Đức Kitô cũng tỏa ánh sáng cứu độ rạng ngời như thế trên đời sống con người và nhất là trên nỗi đau khổ của con người, bởi vì nhờ đức tin mà thập giá gặp gỡ con người cùng lúc với sự Phục Sinh. Mầu nhiệm khổ nạn được hàm chứa trong mầu nhiệm Phục Sinh. Các chứng nhân trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô cũng là chứng nhân sự Phục Sinh của Người. Thánh Phaolô viết:

“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ cõi chết” (Pl 3,10-11)

Thánh Phao lô thật sự đã cảm nghiệm được “quyền năng Phục Sinh” của Đức Kitô trên đường đi Đamas, và chỉ sau đó, dưới ánh sáng Phục Sinh, Người mới thông phần những đau khổ của Đức Kitô, như Người đã viết trong thư Galat. Con đường của Thánh Phaolô rõ ràng là con đường của mầu nhiệm Phục Sinh: sự tham dự vào thập giá Chúa Kitô được thực hiện qua kinh nghiệm về Đấng đã phục sinh, tức là nhờ một sự tham dự đặc biệt vào cuộc Phục Sinh. Vì thế trong các kiểu nói của Thánh Phaolô về đề tài đau khổ, chúng ta rất thường gặp thấy ý tưởng vinh quang nhờ thập giá Đức Kitô.

Các chứng nhân Thập Giá và Phục Sinh đều xác tín rằng: “Ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Chúa” (Cvsđ 14, 22). Và Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu ở Thêxalônica như sau:

“Bởi thế, chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các hội thánh của Thiên Chúa, vì anh em kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân. Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh: anh em sẽ được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ” (2Tx 1,4-5)

Như thế, thông hiệp với đau khổ của Đức Kitô đồng thời cũng là đau khổ vì Nước Thiên Chúa. Dưới cái nhìn của Thiên Chúa công minh, và theo phán quyết của Người, tất cả những ai thông hiệp vào các đau khổ của Đức Kitô, cũng đều trở nên xứng đáng với nước Thiên Chúa. Nhờ chịu đau khổ, họ có thể tái lập - theo một nghĩa nào đó - cái giá vô biên của cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Kitô, Đấng đã trở thành giá cứu chuộc chúng ta. Với giá đó, Nước Thiên Chúa lại được củng cố trong lịch sử loài người, bằng cách trở nên hướng đi dứt khoát cho cuộc sống con người trên trần gian. Đức Kitô đã đưa chúng ta vào vương quốc đó nhờ cuộc khổ nạn của Người. Và cũng chính nhờ đau khổ, những con người đã được dìm vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô sẽ trở nên trưởng thành đối với Người.

(còn tiếp)

Ban hành tại Rôma, gần đền thờ Thánh Phêrô.
Ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, 11.2.1984

Năm thứ sáu
Triều đại Giáo Hoàng của tôi
GIOAN PHAOLÔ II

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Trích "Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo", tr. 36-41.

-----------------------------------------------

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo (1)

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo (2)

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo (3)

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo (4)

Tông thư Salvifici Doloris - Về ý nghĩa đau khổ của con người theo Kitô giáo (5)